- Details
- Category: Công nghệ đột phá
* Chất khoáng tham gia cấu trúc bộ khung cơ thể như Ca, P cấu trúc xương.
- Những nguyên nhân chính gây thiếu khoáng trong thức ăn chăn nuôi
Cũng như vitamin, chất khoáng không phân bố đồng đều trong thức ăn, vì vậy khi chúng ta tổ hợp khẩu phần cần phải tính toán để bổ sung cho đầy đủ. Khác với vitamin là chất khoáng ít khi bị hư hỏng trong quá trình bảo quản, chế biến thức ăn. Như vậy những nguyên nhân nào thường gây ra thiếu khoáng cho vật nuôi ? Sau đây chúng ta sẽ bàn luận về vấn đề này.
- Thiếu khoáng do thiếu nguồn cung cấp nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi
Nguyên nhân thiếu khoáng ngày nay thường ít xảy ra, bởi vì nhà sản xuất thức ăn cũng như nhà chăn nuôi luôn quan tâm đến vấn đề này. Khi tính toán công thức phối trộn thức ăn, các chất khoáng đa lượng được tính toán để bổ sung đầy đủ như: Ca, Mg, P, Na, Cl... Riêng những chất khoáng vi lượng như: Fe, Cu, Zn, Mn, I, Se,… được trộn trong premix khoáng để bổ sung nhằm đáp ứng hoàn toàn theo nhu cầu vật nuôi. Như vậy thiếu khoáng trên gia cầm và trên heo do thiếu từ nguồn cung cấp thức ăn trong thực tiễn ít xảy ra.
- Thiếu khoáng do sự hấp thu chất khoáng trên vật nuôi
+ Cơ chế hấp thu chất khoáng: Những nguyên tố khoáng có hóa trị 1 như: K, Na, Cl hấp thu rất dễ dàng, hầu như ít có yếu tố hạn chế. Riêng các chất khoáng có hóa trị 2 trởlên như: Ca và Mgthì hấp thu phức tạp hơn, nó phải nhờ vào một protein mang (binding protein = BP), người ta còn gọi nó là những “Ligandum”. Những ligandum (BP) này có nhiệm vụ gắn chất khoáng vào và mang đến nơi giao nhận.
Những nguyên tố vi lượng thường là các ion kim loại nặng như: Fe, Cu, Zn, Mn… phần lớn chúng có hóa trị 2+, sự hấp thu rất phức tạp, thường nó phải liên kết với protein mang (BP) để tạo thành một phức hợp, người ta gọi đó là những chelate.
Ligandum + Ion kim loại → Chelate (là một phức chất)
+ Trong cơ thể vật nuôi có 3 loại chelate: chelate vận chuyển, chelate dự trữ và chelate trao đổi.
+ Trên bề mặt của phân tử chelate protein có các acid amin mang điện tích âm liên kết với ion kim loại nặng mang điện tích dương. Một chelate có thể mang trên mình nó nhiều ion kim loại nặng tạo ra dạng hạt keo. Các chelate này khi tiếp xúc với thành tế bào niêm mạc ruột thì xẩy ra sự chuyển ion qua lại giữa chelate và tế bào chất bên trong. Các chelate trong tế bào dự trữ ion kim loại và lại tiếp tục chuyển cho các chelate trong máu để vận chuyển đến nơi cần thiết. Sau đây là một số điểm liên kết với ion kim loại nặng của những acid amin trên bề mặt chelate protein.
+ Ba acid amin có hoạt tính cao trong việc liên kết với ion kim loại nặng trong chelate là cystein, histidin và glycin. Đối với nguyên tố vi lượng á kim như selenium và iod thì chúng liên kết hóa học ở một số vị trí của acid amin.
+ Ba acid amin có hoạt tính cao trong việc liên kết với ion kim loại nặng trong chelate là cystein, histidin và glycin. Đối với nguyên tố vi lượng á kim như selenium và iod thì chúng liên kết hóa học ở một số vị trí của acid amin.
- Những tác hại của thiếu chất khoáng trong thức ăn chăn nuôi.
+ Khi thiếu hụt chất khoáng so với nhu cầu, vật nuôi bị ảnh hưởng xấu, trước tiên là sức khỏe, sau đó là năng suất và phẩm chất của vật nuôi. Tùy theo từng loại chất khoáng thiếu hụt mà vật nuôi có những biểu hiện khác nhau như:
* Thiếu hụt hoặc mất cân đối Ca, P ảnh hưởng xấu đến sựphát triển bộ xương.
* Thiếu Mn (mangan) ảnh hưởng xấu đến sự phát triển khớp xương, súc vật yếu chân, đi lại khó khăn.
* Thiếu Zn (kẽm) ảnh hưởng xấu đến sự phát triển lớp tế bào niêm mạc da, gây bệnh sừng hóa trên da (parakeratosis), giảm hoạt lực tinh trùng, giảm sức đề kháng bệnh.
* Thiếu Se (selenium) ảnh hưởng xấu đến sự phát triển cơ, thiếu Se gây ra nội tạng tiết dịch, hoại tử thoái hóa cơ, còn gọi là bệnh trắng cơ.
* Thiếu Fe (sắt), Cu (đồng) và Co (cobalt) ảnh hưởng xấu đến sự tạo máu, sựtổng hợp hemoglobin, làm cho vật nuôi thiếu máu; thiếu myoglobin, thịt nạc thiếu sắc tố đỏ, bạc màu, chất lượng kém.
* Thiếu I (iod) ảnh hưởng xấu đến sự phát triển tuyến giáp và sựtổng hợp kích tố thyroxin. Nếu thiếu iod lâu ngày sẽ đưa đến sinh trưởng chậm, vật nuôi bị trụi lông, bướu cổ, sức đề kháng bệnh giảm sút, năng suất sinh trưởng, đẻ trứng cũng như tiết sữa giảm sút.
- Một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hấp thu chất khoáng trong thức ăn công nghiệp
+ Các chất gây kết tủa chất khoáng có trong thức ăn:
Canxi trong thức ăn hấp thu có giới hạn, bởi vì Canxi có thể kết tủa với acid béo chuỗi dài, hoặc với acid oxalic hoặc với acid phytic trong thức ăn. Đối với thú có nhu cầu Ca cao như gà mái đẻ, heo trong giai đoạn tiết sữa, gia cầm trong giai đoạn sinh trưởng nhanh sẽ có những biểu hiện thiếu, mặc dù trong công thức thức ăn được bổ sung đầy đủ. Những hợp chất liên kết quá chặt chẽ với ion khoáng làm cho cơ thể không thể trao đổi hấp thu được.
Ví dụ như acid phytic trong các loại hạt được xem là ligandum thực vật, cơ thể động vật không có men tiêu hóa để phân giải các phytate khoáng, nên khi nó kết hợp với ion kim loại tạo thành chelate nặng kết tủa và theo phân thải ra ngoài. Rất đáng tiếc là acid phytic có rất nhiều trong ngũ cốc, các loại hạt và khô dầu, đây lại là nguồn thức ăn chủ lực của gia súc, gia cầm và cá nuôi. Chính vì lý do đó mà trong khẩu phần có nhiều cám gạo và khô dầu thì có nhiều acid phytic, nó sẽ hạn chế sự hấp thu kẽm trong thức ăn làm cho gia súc, gia cầm dễ bị thiếu kẽm nếu như trong khẩu phần kẽm có giới hạn.
+ Vận chuyển khoáng chất trên BP (ligandum) cạnh tranh vị trí liên kết
Protein mang (BP) không phải là vô hạn, vì vậy khi chúng ta bổ sung quá nhiều nguyên tố khoáng này có thể gây ức chế hấp thu nguyên tố khoáng khác nên có thể gây thiếu chất khoáng đó, ví dụ: Ca++ cạnh tranh vị trí liên kết với Zn++ trên các ligandum vận chuyển kẽm, vì vậy khi bổ sung quá dư thừa Ca++ cũng sẽ gây ra tình trạng thiếu kẽm. Người ta còn nhận thấy rằng nếu Cu++ quá dư thừa trong thức ăn sẽ cạnh tranh vị trí liên kết với Fe++ trên ligandum vận chuyển và dự trữ Fe, có thể gây ra thiếu Fe cho vật nuôi.
Công nghệ Chilate
Trong cơ thể vật nuôi có 3 loại chilate phức hợp: chilate vận chuyển, chilate dự trữ và chilate trao đổi.
Công nghệ Peptide
Peptide kháng khuẩn là thành phần chủ yếu của hệ miễn dịch động vật, bao gồm các protein có từ 20 đến 50 axit amin.
Công nghệ Vi nang
Công nghệ giúp biến đổi và bảo vệ các hợp chất có hoạt tính sinh học cao như enzyme, tế bào (probiotic), chất thơm...